Thứ Tư, 4 tháng 11, 2020

Những biến đổi và bệnh ở ngoài da khi có bầu

 Da là cơ quan lớn nhất trên cơ thể, có nhiệm vụ bao bọc, che chở cơ thể khỏi sự tác động không có lợi của môi trường bên ngoài. Ngoài ra, chức năng chính của da còn để điều hòa, cảm nhận nhiệt độ, tổng hợp vitamin B và D… Khi mang thai, cũng như tất cả những bộ phận khác, da sẽ bị ảnh hưởng. Bài viết này sàng lọc trước sinh gentis sẽ cung cấp cho bạn các kiến thức về những biến đổi và bệnh ngoài da trong suốt thời kì mang thai để có thể chủ động chăm sóc cho làn da được tốt nhất.

Những thay đổi & bệnh ngoài da khi có bầu

các biến đổi ở ngoài da ở mẹ bầu

thay đổi sắc tố tạo sạm da, thâm

phần lớn những biến đổi sắc tố trong thời kì có bầu là tăng sắc tố gây nên các đám sạm trên da, thường thấy là thâm đường giữa bụng, thâm quầng vú, núm vú, sinh dục, nách, mặt trong đùi… các vị trí trước khi có bầu đã tăng sắc tố sẽ trở nên thâm hơn.
Khoảng 50% các trường hợp phụ nữ có thai sẽ xuất hiện những đám thâm ở mặt gọi là rám má (nám má hay melasma). Nám có thể ở khắp mũi, má, trán. Những phụ nữ da sáng & tiếp xúc với ánh sáng nhiều thì bị nhiều hơn. Nám da có thể giảm dần vài tháng sau sinh, nhưng đôi khi lại tồn tại vĩnh viễn.
Nguyên nhân của thâm da là do estrogen, progesterone ảnh hưởng lên tế bào sắc tố tạo sản xuất nhiều melanin hơn.

thay đổi ở lông, tóc & móng

Thay đổi ở lông, tóc và móng 1
thay đổi có thể làm cho chị em có rất nhiều hoặc rất ít lông, tóc. Khi có bầu, một số người thấy lông ở mặt, cánh tay, chân nhiều và đen hơn, trong khi tóc trên đầu có thể lại thưa hơn. Nguyên nhân là do rụng tóc telogen (tóc ở giai đoạn ngừng triển) Rụng tóc có thể kéo dài từ 1- 5 tháng cho đến 15 tháng sau khi sinh, tuy nhiên không cần khám chữa vì tóc sẽ mọc lại hoàn toàn.
Khi có bầu móng có thể bị dòn, móng có rãnh khía hoặc tách móng ở cuối gốc móng còn gọi là bong móng.

thay đổi các tuyến

Khi có bầu chức năng của tuyến mồ hôi tăng lên, chức năng của tuyến bã lại giảm xuống. Hoạt động của tuyến giáp cũng tăng lên làm tăng hoạt động của tuyến mồ hôi.
những bệnh do tác động của tuyến mồ hôi là miliaria (các ban do nóng) & tăng tiết mồ hôi. Các tuyến bã ở những phần núm, tuyến Montgomery to ra bên trong thời kì mang bầu. Ngoài ra có thể gặp bệnh trứng cá trong thai kì.

các thay đổi mô liên kết và mạch máu trong thai kỳ

biến đổi của mô liên kết

Thay đổi của mô liên kết 1
những vết rạn da thường phát triển vào nửa sau của thai kỳ với biểu hiện là những vết màu đỏ sáng hoặc đỏ tím. Vùng lớn vết rạn khu trú ở mảng bụng dưới, nhưng cũng có thể thấy ở đùi, mông, hông, vú & cánh tay. Ở người da trắng những rạn da thường có màu hồng nhạt, nhưng các người da sẫm thì các vết rạn sẽ có màu sáng hơn mảng da xung quanh.
những vết rạn thường không đau, nhưng do sự căng & duỗi ra của da nên có thể tạo nên cảm giác mẩn ngứa và châm chích.
các yếu tố thường liên quan đến hình thành vết rạn:
  • các người có mẹ bị rạn da;
  • những phụ nữ mang thai lần trước bị rạn;
  • các phụ nữ có thai tăng cân nhanh & quá mức.
Nguyên nhân rạn da là do có sự chia cắt sợi collagen của da. Sau khi sinh, những vết rạn thường mờ đi thành màu bạc trắng, dần teo da & lõm xuống & tồn tại rất lâu.

các biến đổi về mạch máu

Khi có thai thì các mạch máu nhỏ và các mao mạch sẽ tăng sinh. Mảng lớn những mạch máu đều to hơn để cung cấp nhiều máu hơn. Khoảng 50% phụ nữ thấy dãn mạch hình mạng nhện ở mặt, cổ. Ngoài ra cũng có thể thấy ở ngực, bàn tay hay chân. Bàn tay có thể thấy đỏ lan tỏa. Lợi đỏ & dễ chảy máu.
Khoảng 40% người mang thai có dãn tĩnh mạch chi dưới do các thay đổi của mạch máu & áp lực đè nén của thai nhi lên tĩnh mạch chậu. Hiện tượng này thường xảy ra vào 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối của thời kỳ mang thai.
Ngoài ra, do sự biến đổi nhanh chóng, thất thường của các mạch máu bé có thể tạo hiện tượng mặt đỏ hay nhợt nhạt, nóng hay lạnh, phát ban. Trầm trọng hơn có thể thấy hiện tượng Raynaud’s.

các bệnh da trong thai kỳ

một số bệnh da xuất hiện bên trong thai kì không gây nên ảnh hưởng gì lớn cho mẹ và thai nhi, nhưng có các bệnh da lại tạo nguy hiểm cho cả mẹ & thai nhi. Dưới đây là một số bệnh da có thể gặp bên trong thời kì mang thai:

Mày đay sẩn ngứa hay phát ban đa dạng ở mẹ bầu

Mày đay sẩn ngứa hay phát ban đa dạng ở phụ nữ có thai 1
Mày đay sẩn mẩn ngứa (Pruritic Urticarial Papules and Plaques of Pregancy PUPPP) hay phát ban đa dạng (Polymorphic Eruption of pregnancy) là bệnh phát ban hay gặp nhất ở người mang thai. Thông thường bệnh hay xuất hiện lần đầu tiên vào ba tháng cuối thai, xấp xỉ tuần thứ 35 của thai kỳ.
vùng lớn mày đay sẩn mẩn ngứa xuất hiện đầu tiên từ trên những vết rạn da ở mảng bụng. Thương tổn khởi phát là các ban mày đay bé, màu đỏ, hơi phù nề. Các ban này liên kết với nhau thành đám sẩn mày đay ở phần bụng. Đôi khi trên những ban có thể thấy mụn nước nhỏ. Sau vài tuần, các đám ban sẩn có thể lan đến đùi, mông, ngực, cánh tay, lưng… & thường rất mẩn ngứa. sàng lọc trước sinh là gì?

Ứ mật bên trong gan (ICP)

dấu hiệu thường gặp nhất của ứ mật bên trong gan là ngứa, điển hình là xuất hiện vào ba tháng cuối thai và thường thấy ở các phụ nữ mang thai đôi, thai ba.
mẩn ngứa bắt đầu ở lòng bàn tay, bàn chân sau đó lan ra những vùng còn lại của cơ thể. Có thể thấy những ban đỏ xuất hiện trên các vết mẩn ngứa, cào xước. Khoảng 10 15% những trường hợp xuất hiện vàng da, điển hình là vào tuần thứ 2 đến thứ 4 sau khi có ngứa. Mặc dù, sau khi sanh, cả ngứa và vàng da đều tự khỏi. Khoảng 40 -50% trường hợp ứ mật bên trong gan có thể tái phát ở lần có thai sau.

Chốc dạng herpes (Impetigo herpetiformis)

Chốc dạng herpes (Impetigo herpetiformis) 1
Bệnh hiếm gặp, được coi là 1 hình thái lâm sàng của vảy nến thể mủ mặc dù người bị chốc dạng herpes thường không có tiền sử cá nhân hoặc gia đình bị bệnh vảy nến.
biểu hiện điển hình thường bắt đầu vào ba tháng cuối của thời kì mang thai. Thương tổn đầu tiên là những mảng đỏ xuất hiện ở mặt bên trong đùi hay bẹn, vùng trước và sau cổ. Trên những vùng đỏ da là các mụn mủ bé li ti chứa đầy mủ, cụm lại thành đám & có khuynh hướng lan ra xung quanh. Các mụn mủ mới xuất hiện trên nền ban đỏ gờ lên ở ngoại vi, bên trong khi đó những mụn mủ ở trung tâm xẹp xuống bong vảy và lành giữa. Các mụn mủ sẽ lan đến phần thân mình & chi, nhưng rất ít khi ở mặt, bàn tay và bàn chân. Mặc dù vậy các ban có thể thấy thương tổn ở niêm mạc miệng & giường móng. Những mụn mủ này không bị nhiễm khuẩn.

Sẩn ngứa nang lông (pruritic folliculitis)

Sẩn ngứa nang lông điển hình thường phát vào ba tháng giữa của thai kì. Khởi phát là các nốt màu đỏ bé không có mủ. Các thương tổn thường ở vai, nửa lưng trên, cánh tay, ngực & bụng tương tự trứng cá. Nuôi cấy thương tổn không thấy vi khuẩn. Có thể rất mẩn ngứa. Có thể tự khỏi sau sinh 2 ba tuần.
Căn nguyên bệnh chưa rõ ràng. Một vài nghiên cứu thấy rằng bệnh xuất hiện là do biến đổi hormon. Tuy nhiên trong một nghiên cứu lại cho thấy các phụ nữ bị tình trạng này không có sự bất thường về nồng độ hormon.
khám sẩn mẩn ngứa nang lông tương tự như trứng cá mức độ nhẹ. Một số trường hợp được bôi bằng Benzoyl peroxide có hiệu quả nhất, không cần cho kháng sinh. Uống kháng Histamin có thể có tác dụng khám chữa ngứa.
tác động đến thai nhi: có nhiều báo cáo khác nhau về tác động sẩn ngứa nang lông trên mẹ bầu. Một nghiên cứu thấy bệnh làm tăng tỉ lệ trẻ đẻ cân thấp. Mặc dù một nghiên cứu khác lại không thấy như vậy. Tình trạng này không làm tăng nguy cơ đẻ non hay sảy thai.

Bệnh Pemphigoide ở mẹ bầu (pemphigoide gestationis)

Bệnh Pemphigoid ở người mang thai (Pemphigoid gestationis PG) còn được gọi là bệnh herpes thai nghén (Herpes gestationis HG) mặc dù vậy bản chất bệnh này không liên quan đến nhiễm bất kì loại virus nào. Đây là bệnh tự miễn, có mẩn ngứa và hiếm gặp ở người mang thai.
Bệnh thường xuất hiện trong 3 tháng giữa, ba tháng cuối của thời kỳ mang thai hay 1 thời gian ngắn sau khi sinh, xấp xỉ tuần thứ 21. Cũng có vài báo cáo nói rằng bệnh xuất hiện vào 3 tháng đầu thai kì.
Tóm lại khi mang bầu, những bà mẹ phải đối mặt với 1 số biến đổi trên da hay xuất hiện 1 số bệnh da, trong đó 1 số bệnh có thể ảnh hưởng lớn ở cả người mẹ & thai nhi. Vì thế các bà mẹ có bầu cần được theo dõi cẩn thận, phát hiện và khám sớm các dấu hiệu bệnh để có được trị liệu tốt và an toàn cho cả mẹ và thai nhi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét